An ninh Môi trường là gì – Vấn đề an ninh môi trường ở Việt Nam hiện nay

03/11/2020 02:54

(7596)


Từ khóa An ninh môi trường hiện nay đang được nhiều người nhắc đến, nhất là những cảnh báo về môi trường đang bị tàn phá ở nhiều nước và vấn đề biến đổi khí hậu. Vấn đề an ninh môi trường nổi lên như một hiện tượng bức bách của đời sống xã hội.

Tại Việt Nam, chất lượng môi trường đang có những biến đổi theo chiều hướng bất lợi đối với cuộc sống của con người, mà những thiên tại lũ lụt, sụt lở núi đồi, lũ ống lũ quét vừa qua là một hiện tượng đáng lo ngại. Nếu không giữ được an ninh môi trường thì không có bất kỳ một sự tồn tại và phát triển nào của con người cũng như xã hội loài người. Vậy nguyên nhân cơ bản của tình trạng này và một số giải pháp nhằm giữ vững an ninh môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới như thế nào.

An ninh môi trường là thành tố quan trọng của an ninh quốc gia, một phạm trù thuộc lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Theo báo cáo “Phát triển con người” năm 1994 của Liên Hợp quốc, an ninh phi truyền thống bao gồm 7 lĩnh vực là: kinh tế, lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị.

An ninh môi trường là trạng thái hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường cân bằng để bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật trong hệ thống đó.

Dưới góc độ triết học, việc giải quyết vấn đề an ninh môi trường là bảo vệ môi trường sống, môi trường tồn tại của con người và xã hội loài người chính là bảo vệ một trong ba yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. An ninh môi trường không được bảo đảm thì xã hội không có sản xuất vật chất, không có đời sống tinh thần, không có sự tồn tại và phát triển.

Biểu hiện của môi trường bị mất an ninh là: cạn kiệt tài nguyên, thiên tai thường xuyên, thiên nhiên suy thoái, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ô zôn, biến đổi các chu trình sinh – địa, suy giảm đa dạng sinh học… Vì vậy, nếu không giữ được an ninh môi trường thì những thảm họa môi trường sẽ gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất ổn chính trị, trở thành ngòi nổ cho các bất ổn xã hội, các cuộc xung đột, chiến tranh và thậm chí hủy diệt loài người.

Ở Việt Nam, bảo đảm an ninh môi trường được coi là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân”. Khái niệm an ninh môi trường đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.

Vấn đề bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cũng là một nội dung quan trọng của Văn kiện Đại hội XII của Đảng, trong đó nhấn mạnh: “Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường”.

Đồng thời: “Cần sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống”.

Điều này cho thấy, trong những năm gần đây, vấn đề bảo đảm an ninh môi trường đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và thể chế hóa trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật.

Mặc dù vậy, môi trường nước ta hiện vẫn đang bị ô nhiễm nặng nề, đe dọa đến an ninh quốc gia. Văn kiện Đại hội XI chỉ rõ: “Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”.

Bên cạnh đó,“Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính – tiền tệ, điện tử – viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng”.

Vì vậy, việc xem xét, đánh giá vấn đề an ninh môi trường ở nước ta hiện nay là cần thiết. Có thể khái quát một số biểu hiện của an ninh môi trường ở Việt Nam hiện nay như sau:

Một là, ô nhiễm môi trường

Tình trạng ô nhiễm môi trường sống (hay còn gọi là quá trình tự hủy diệt) do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra gây bức xúc trong dư luận. Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe dọa trực tiếp sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững, đến an ninh môi trường của các thế hệ hiện tại và tương lai.

Ô nhiễm môi trường có ba loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Cả ba loại ô nhiễm đó hiện nay tại Việt Nam đều đang vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép ở các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề.

Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tỷ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 – 20%, như: tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí.

Thí dụ dọc lưu vực sông Đồng Nai mỗi ngày phải tiếp nhận trên 111 nghìn m3 nước thải của 56 KCN –KCX đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận…

Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong KCN đã hủy hoại môi trường, phá vỡ hệ thống thủy lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán hoặc ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại cho phát triển kinh tế – xã hội như trường hợp nhà máy Formusa (Hà Tĩnh) năm 2016. Vào thời điểm đó, số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn, có tới trên 17.600 tàu cá và gần 41nghìn người đã bị ảnh hưởng trực tiếp.

Đáng lo là có trên 176 nghìn người phụ thuộc bị ảnh hưởng do không thể đánh bắt trong phạm vi từ bờ đến 20 hải lý, có tới 90% tàu lắp máy công suất thấp và gần 4 nghìn tàu không lắp máy đã phải nằm bờ. Sản lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng.

Bên cạnh ô nhiễm ở các KCN là ô nhiễm ở các làng nghề. Trong đó, ngành sản xuất có thải lượng ô nhiễm lớn nhất là tái chế kim loại, quá trình này phát sinh các khí độc,như: hơi axit, kiềm, oxit kim loại (PbO, ZnO, Al2 O3), qua khảo sát tại làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên).

Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ phát sinh ô nhiễm mùi do quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong nước thải và các chất hữu cơ trong chế phẩm thừa được thải ra tạo nên các khí như SO2, NO2, H2S, NH3… Các khí này có mùi hôi tanh, điển hình như ở làng trống da Lâm Yên (Đại Lộc, Quảng Nam).

Các làng nghề ươm tơ, dệt vải và thuộc da, thường bị ô nhiễm các khí: SO2, NO2. Các làng nghề thủ công mỹ nghệ thường bị ô nhiễm nặng bởi khí SO2 phát sinh từ quá trình xử lý chống mốc cho các sản phẩm mây tre đan. Nồng độ SO2, NO2 tại các làng nghề tái chế nhựa khá cao, vượt nhiều lần giới hạn cho phép.

Hoạt động gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khỏe của người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận, dẫn đến sự phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột xã hội.

Ngoài ra,ô nhiễm môi trường tại các đô thị lớn cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn… Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc.

Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Đây là quá trình tự hủy diệt môi sinh của con người trong quá trình tồn tại và phát triển.

Hai là, biến đổi khí hậu đe dọa môi sinh

Việt Nam là một trong 5 quốc gia ở khu vực châu Á phải chịu nhiều hậu quả nhất do biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Trong 50 năm qua, thời tiết ở nước ta có nhiều thay đổi bất thường. Nhiệt độ trung bình hằng năm đều tăng. Số đợt không khí lạnh giảm rõ rệt, các đợt lạnh bất thường tăng cao.

Biến đổi khí hậu đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của nông dân, nhất là các hiện tượng khí hậu cực đoan như: tình trạng nước biển dâng, xâm nhập mặn đang và sẽ làm mất đi nhiều diện tích trồng cây lương thực. Sự bất thường của chu kỳ khí hậu nông nghiệp không những dẫn tới sự tăng dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất mùa màng, mà còn gây ra các rủi ro nghiêm trọng khác.

Theo tính toán của các nhà khoa học, biến đổi khí hậu đang làm cho năng suất lúa xuân ở vùng đồng bằng sông Hồng có thể giảm 3,7% vào năm 2020 và giảm tới 16,5% vào năm 2070; năng suất lúa mùa sẽ giảm 1% vào năm 2020 và giảm 5% vào năm 2070 nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả.

Trong 10 năm trở lại đây, cả nước liên tiếp xảy ra thiên tai, như: lũ lụt, ngập úng lớn, lũ quét, hạn hán,…gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư, hạ tầng cơ sở. Chỉ tính riêng đợt mưa lũ xảy ra từ mùng1đến mùng 3/8/2017 trên địa bàn các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La, Cao Bằng đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. 33 người chết và mất tích, tổng thiệt hại về vật chất lên tới hơn 610 tỷ đồng.

Đợt mưa lũ bất thường xảy ra từ ngày 9 đến 14/10/2017 tại các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ gây thiệt hại nặng nề: Hòa Bình ước tính 802 tỷ đồng,Yên Bái khoảng 700 tỷ đồng,Thanh Hóa khoảng 2,9 nghìn tỷ đồng. Tổng thiệt hại do thiên tai ước tính khoảng 6,1 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười tháng năm 2017, thiên tai làm 280 người chết, mất tích và 283 người bị thương; 4,9 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 308 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 163,7 nghìn ha lúa và 101,4 nghìn ha hoa màu hư hỏng.

Ngoài ra, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu dẫn tới tình trạng tị nạn môi trường/khí hậu (trong nước và quốc tế) do mất nơi ở, thiếu đất sản xuất, môi trường biến đổi hoặc do bệnh tật và nghèo đói. Vấn đề tị nạn khí hậu không chỉ đơn thuần là vấn đề xã hội, kinh tế mà có thể còn là vấn đề chính trị, chiến tranh.

Ba là, xung đột môi trường nước

Việt Nam có 2.360 con sông thuộc 16 lưu vực sông. Trong đó, hơn 60% tài nguyên nước mặt xuất phát từ các quốc gia khác. Hệ thống sông Hồng có 50% nguồn nước xuất phát từ Trung Quốc. Hệ thống sông Mekong trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có 10% nguồn nước bổ sung từ nội địa, trong khi 90% nguồn nước chảy qua từ biên giới Campuchia và ngược lên thượng lưu Lào, Thái Lan, Myanmar và Trung Quốc.

Hệ thống sông Mã, sông Cả đều có 40% lưu vực phía thượng nguồn nằm trên lãnh thổ Lào. Hệ thống sông Đồng Nai cũng có 15% lưu vực phía thượng nguồn là Campuchia chảy qua.

Với đặc điểm như vậy, Việt Nam cực kỳ nhạy cảm với mọi hoạt động liên quan đến khai thác và sử dụng nguồn nước từ phía thượng lưu. Trong khi đó, biến đổi khí hậu đang làm suy thoái tài nguyên nước, nhưng nhu cầu dùng nước của các quốc gia đều tăng lên, làm tăng các bất đồng và xung đột trong sử dụng chung nguồn nước.

Để bảo đảm sự bền vững về tài nguyên nước, mức khai thác không được vượt ngưỡng 30% nguồn nước, nhưng hầu hết các lưu vực sông ở miền Trung, miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 30 -50% lượng dòng chảy. Riêng ở Ninh Thuận khai thác tới 70 -80% nguồn nước.

Việc khai thác quá mức nguồn nước, đặc biệt là xây dựng các công trình hồ chứa thủy lợi, hồ chứa thủy điện chặn hoàn toàn dòng chảy sông là nguyên nhân làm suy giảm rõ rệt số lượng và chất lượng nước trên các lưu vực sông lớn như: Sông Hồng, Sông Đồng Nai, Sông Sài Gòn, Sông Gia Vu, Sông Thu Bồn, Sông Ba, Sông Sêrêpok…

Do tập quán, thói quen sản xuất, canh tác nông nghiệp sử dụng nhiều nước của nhân dân nhưng lại thiếu các biện pháp hợp lý giữ, trữ nước trong mùa mưa lũ để dùng dần trong mùa khô nên thường xuyên phải đối phó với tình trạng thiếu nước vào mùa khô ở nhiều nơi.

Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia “thiếu nước” do lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m3, thấp hơn chỉ tiêu 4.000m3 một người mỗi năm của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (IWRA). Đây được xem là một nghịch lý đối với một quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc như nước ta.

Bốn là, “xâm lược sinh thái” đe dọa an ninh môi trường

Việt Nam là quốc gia đang phát triển, đi sau các nước phát triển nhiều thập kỷ. Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, lợi dụng sơ hở, thiếu sót, bất cập trong hệ thống pháp luật và yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhiều cán bộ nước ta đang tiếp tay cho các loại tội phạm, tiếp tay cho “xâm lược sinh thái” như: nhập khẩu phế liệu công nghiệp, nhập khẩu các sinh vật ngoại lai, nhập khẩu nông sản có hóa chất độc hại… biến nước ta thành bãi rác công nghiệp, nông nghiệp.

Theo Bộ Công thương, hiện nay 70% kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị từ các nước có công nghệ trung gian. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc thế hệ cũ này đang làm gia tăng hiện tượng phát thải, rác thải. Đặc biệt trong những năm gần đây, tình trạng đáng lo ngại là gia tăng việc nhập khẩu phế liệu, hàng cũ vào nước ta như thép phế liệu, giấy phế liệu, bao bì nhựa, hàng điện tử đã qua sử dụng và máy tính cũ.

Ngoài ra, an ninh sinh thái do sự nhiễu loạn của nhiều hệ sinh thái, sự xâm lấn của các sinh vật lạ và sinh vật biến đổi gen đang diễn ra khá phổ biến ở Việt Nam, gây ảnh hưởng tới an ninh môi trường quốc gia.

Thí dụ như, năm 2000, chuột hải ly đã được nhập khẩu nuôi thử nghiệm ở Việt Nam. Đây là loài có tên trong danh sách 100 loài sinh vật xâm hại nguy hiểm nhất thế giới. Loài chuột hải ly mang các mầm bệnh như lao, lao tủy, lao da… gây bệnh cho người và vật nuôi, ảnh hưởng xấu đến các động vật khác. Mặc dù khi phát hiện tác hại tới môi trường sinh thái, chuột hải ly đã bị tiêu hủy nhưng vẫn còn và ảnh hưởng đến hệ sinh thái nước ta hiện nay.

Bên cạnh đó là tôm hùm đỏ, gián đất, rùa tai đỏ, ốc bươu vàng, chồn nhung đen… là những sinh vật ngoại lai có thể gây hậu quả nghiêm trọng nằm trong danh sách cấm nhập khẩu và không được sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nhưng hiện nay vẫn còn và gây ảnh hưởng xấu tới môi trường.

Đằng sau việc đưa công nghệ lạc hậu, đưa sinh vật độc hại biến đổi gen vào Việt Nam những năm gần đây gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái còn thể hiện âm mưu chiến tranh sinh thái, đe dọa an ninh môi trường ở nước ta. Các nước nghèo như Việt Nam rất dễ bị mắc bẫy này.

Việc những người dân sống dựa vào rừng, dựa vào tài nguyên sinh thái, nay phải sang các nước khác để kiếm sống đang được hiểu là mất an ninh môi trường. Bởi vì, suy thoái môi trường dẫn đến tị nạn môi trường. Những cộng đồng sống dựa vào tài nguyên, khi mất các dịch vụ sinh thái, không còn mưu sinh, họ trở thành tị nạn môi trường ở các khu đô thị khác hoặc sang nước ngoài để kiếm kế sinh nhai.

Tại nhiều tỉnh gần biên giới, khi người dân không sống dựa vào tài nguyên sinh thái được, họ sẽ tìm cách sang các nước khác làm thuê, trở thành tị nạn môi trường. Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới mặc dù chưa có biểu hiện rõ ràng nhưng đã xuất hiện những dấu hiệu ảnh hưởng nhất định.

Đọc thêm

lên đầu trang